Đờn ca tài tử - Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
Tại phiên họp Uỷ ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể lần thứ 8 của UNESCO diễn ra tại thành phố Baku, nước Cộng hoà Azerbaijan tổ chức ngày 5/12, Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ của Việt Nam được đưa vào Danh sách di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nhắc đến Đờn ca tài tử, người ta nghĩ ngay đến xứ miệt vườn, đến vùng đất phương Nam. Đây là thể loại “thính phòng” đặc thù của miền Nam, cũng như Ca trù của miền Bắc và Ca Huế của miền Trung. Với người dân Nam bộ, Đờn ca tài tử đã trở thành một nét sinh hoạt văn hoá truyền thống lâu đời.
Những ai đã từng sống hay có dịp về thăm nơi đây nhất là vào những đêm trăng thanh gió mát, những dịp cúng tế ở đình, ở miếu, đám cưới, đám hỏi, đám tang hay giỗ chạp, tiệc tùng đều có thể được thưởng thức Đờn ca tài tử. Đờn ca tài tử có thể trình diễn ở bất cứ đâu và bất cứ thời điểm nào; trang phục thường giản dị, bình dân không câu nệ.
Có người hiểu lầm rằng chữ “tài tử” có nghĩa là không chuyên nghiệp, mang tính cách giản dị của dân gian và của những người nghiệp dư. Theo GS.TS Trần Văn Khê, thật ra “tài tử” có nghĩa là người có tài như trong câu “dập dìu tài tử giai nhân” (Truyện Kiều). Chữ “tài tử” còn để chỉ việc không dùng nghệ thuật của mình để làm kế sinh nhai. Tuy nhiên không phải vì thế mà trình độ của người tài tử lại thấp. Để trở thành người tài tử đúng nghĩa phải trải qua thời gian luyện tập rất công phu, học từ chữ nhấn, chữ chuyền, “rao” sao cho mùi, “sắp chữ” sao cho đẹp và luôn tạo cho mình một phong cách riêng.
Những người thích Đờn ca tài tử hay cùng với bạn đồng điệu họp nhau tại nhà một người trong làng rồi cùng hoà đàn để người mộ điệu thưởng thức. Người đàn tài tử chính thống hễ vui, ngẫu hứng thì đàn chơi, còn không hứng thì thôi, không ai có thể bỏ tiền ra mua được tiếng đàn của họ.
Không ai quy định một buổi Đờn ca tài tử như thế phải có bao nhiêu người, bất cứ ai biết đàn biết ca đều có thể tham gia, cũng không theo chương trình sắp sẵn mà những người đồng điệu gặp nhau, cao hứng muốn đàn bản gì là tất cả cùng hoà đàn. Đôi khi một người một đàn cũng làm nên một buổi Đờn ca tài tử, nhưng lí tưởng thì ngoài người ca còn cần tranh - cò- kìm- sáo (sau này có thêm sến, độc huyền cầm, ghi-ta phím lõm) cùng hoà điệu.
Khác với Ca trù miền Bắc hay Ca Huế miền Trung mà lời ca quan trọng hơn tiếng đàn, trong Đờn ca tài tử Nam bộ, dàn nhạc được chú ý hơn tiếng ca. Thường người nghe rất chú trọng vào chữ đàn nhấn có gân, cách sắp chữ duyên dáng, cách xuống câu ngọt ngào, uyển chuyển đến lối đàn bay bướm, đa dạng.
GS.TS Trần Văn Khê cho biết đến nay vẫn chưa có tài liệu nào khẳng định về niên đại cụ thể của nghệ thuật Đờn ca tài tử. Dựa theo các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân thì Đờn ca tài tử hình thành vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Lúc này ở Nam bộ đã hình thành 2 nhóm ca nhạc tài tử và tranh đua với nhau về nghệ thuật, ra sức cải tiến, nâng cao sáng tác thêm nhiều bài bản mới bổ sung vào. Trưởng nhóm miền Tây là ông Trần Quan Quờn (Ký Quờn), trưởng nhóm miền Đông là ông Nguyễn Quang Đại. Nguyễn Quang Đại là nhạc quan của triều đình Huế, vì bất mãn cảnh phải phục vụ giặc Lang Sa xâm lược, đã bỏ kinh thành vào Nam sau khi hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi. Ông trôi dạt đến vùng đất Chợ Đào (nơi có gạo Nàng Thơm Chợ Đào, xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước, tỉnh Long An), mở lớp dạy đờn ca. Ông là người Quảng Nam, con thứ ba trong gia đình, theo cách gọi của dân Nam bộ là Ba Đại, nhưng nói trại theo tiếng Quảng Nam là Ba Đợi. Tại Chợ Đào, ông Ba Đợi thu nhận những học trò có máu mê đờn ca để truyền dạy những bài bản cung đình. Nhạc lễ cung đình trang trọng, hoành tráng đã trở nên dân dã, gần gũi trong môi trường của vùng đất mới khẩn hoang. Từ Cần Đước, nhạc tài tử được khơi nguồn từ ông Ba Đợi đã nhanh chóng giao thoa cùng các dòng nhạc lễ khác ở Nam Bộ, hình thành nên bộ môn nghệ thuật Đờn ca tài tử nam bộ từng phát triển rực rỡ trong nửa đầu thế kỷ 20.
Trước đó, ông Ba Đợi và những nhạc quan của triều Nguyễn trên đường vào Nam đã dừng chân ở Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam; từ đó Ca Huế mang theo chút âm hưởng xứ Quảng.
Vào đến miền Nam, Đờn ca tài tử không còn giữ nguyên chất Ca Huế mà thay đổi rất nhiều để thích nghi theo thị hiếu, thẩm mỹ phù hợp với nếp sống mới. Những con người tháo vát, đầy sáng tạo, tuy đã tìm thấy một cuộc sống an lành khi đến với vùng đất màu mỡ, nhưng do lòng luôn thương nhớ cội nguồn nên trong các điệu, các hơi của Đờn ca tài tử thường thích những điệu có phảng phất nỗi u buồn. Trong khi phong cách miền Trung vẫn giữ theo truyền thống một cách chặt chẽ thì ở miền Nam lại phóng khoáng và bay bướm, nét nhạc cũng như tiết tấu thay đổi tuỳ lúc, tuỳ người. Ông Ba Đợi thường nhắc nhở học trò: “Lễ phải có Nghi. Nhạc phải có Hoà. Tiếng đàn phải đủ trầm, bổng, nhặt, khoan”.
Nhạc khí chính trong đờn ca tài tử là đàn kìm (tức đàn nguyệt) và đàn tranh (tức là đàn thập lục). Theo truyền thống, ít khi nhạc công độc tấu mà thường song tấu đàn kìm và đàn tranh với tiếng “thổ” pha tiếng “kim”, hoặc tam tấu (kìm, tranh, cò), đôi khi có ống sáo thổi ngang hay ống tiêu thổi dọc. Và đặc biệt là song lang (nghĩa là hai thanh tre già - có người gọi là song loan) để đánh nhịp. Ngoài ra còn có các nhạc khí khác như đàn sến, đàn gáo, đàn bầu, đàn tỳ bà nhưng ít thông dụng.
Từ khoảng năm 1930 có thêm những nhạc khí phương Tây như vi-ô-lông, măng-đô-lin khoét phím, ghi-ta măng đô, ghi-ta Hạ-uy-di, ghi-ta phím lõm, để có thể “nói” trung thực, chính xác ngôn ngữ âm nhạc truyền thống Việt Nam.
Trong Đờn ca tài tử thường có 2 cách lên dây đàn chính: dây bắc (đàn những bản hơi Bắc, hơi Quảng, hơi Nhạc) và dây nam (đàn những bản hơi Xuân, hơi Ai, hơi Đảo), thường khi còn có thêm dây Oán và dây Vọng cổ; mỗi nhạc khí lại có cách lên dây đặc biệt. Dàn nhạc rất được chú trọng trong Đờn ca tài tử, người nghe để ý vào tiếng đàn nhấn “có gân”, cách sắp chữ, sắp câu duyên dáng, cách xuống câu đến “xang, hò, xề...” ngọt ngào; cách đàn “câu thòng, câu nhồi, câu lợi” bay bướm. Nhưng tiếng ca cũng không kém phần quan trọng.
Những nét đặc thù của nghệ thuật Đờn ca tài tử
Trước khi vào bản thuộc hơi nào, nhạc công Đờn ca tài tử luôn có câu rao theo hơi đó, một mặt dẫn thính giả đi vào làn điệu, vào hơi để nghe bản đàn, đồng thời cũng là nghe thử cây đàn có phím nào lệch hay dây đàn cứng quá hoặc mềm quá không, để lúc biểu diễn tiếng nhạc được hoàn chỉnh hơn.
Khác hẳn với những bài “dạo” của miền Trung luôn có nét nhạc cố định, câu “rao” theo truyền thống miền Nam phóng túng hơn nhiều. Mỗi người thầy có một cách rao, lúc đầu người học đàn theo cách của thầy, nhưng khi đạt đến mức nghệ thuật khá cao thì được phép sáng tạo những câu rao của riêng mình. “Rao” thể hiện toàn bộ khả năng ứng tấu và cả cá tính của người nhạc sĩ tài tử. Câu “rao” không chỉ là lời mở đầu cho bài bản mà có khi còn chứa đựng cả cung bậc của tình cảm: hỷ, nộ, ái, ố, bi, ai…Qua câu “rao”, thính giả sành có thể nhận biết được tính tình của người đàn. Hoặc với những nhạc sư lão luyện có thể chỉ với vài câu “rao”, người ngoài nhạc giới Tài tử, người chưa từng biết về Đờn ca tài tử Nam bộ cũng có thể hiểu được, cảm thông và thưởng thức trọn vẹn phong cách Đờn ca tài tử, hiểu biết về “người Tài tử”.
- Chữ nhạc: Mỗi chữ nhạc không có cao độ tuyệt đối, chỉ có cao độ tương đối, cũng không có cao độ nhất định mà có thể là một chữ đàn “non” hay “già”. Nhiều chữ nhạc trong bản đàn được tô điểm bằng cách nhấn nhá, rung, mổ. Bàn tay mặt tạo ra những “thanh” có cao độ, cường độ, màu âm, nhưng đó mới là cái “xác” của âm nhạc, phải nhờ bàn tay trái rung, nhấn để tạo nên cái “hồn” làm nên giá trị đích thực của nghệ thuật.
- Bài bản: Theo thường Đờn ca tài tử có 20 bài tổ, tuy không phải người Đờn ca tài tử nào cũng thuộc đầy đủ hay khi hòa đàn cũng không bắt buộc phải chơi hết 20 bài, nhưng các nghệ sĩ đều phải biết tên các bài đó bao gồm:
6 bài Bắc: Tây Thi, Cổ bản, Lưu thuỷ trường, Phú lục chấn, Bình bán chấn, Xuân tình chấn hay Xuân tình điểu ngữ.
3 bài Nam: Nam xuân, Nam ai, Nam đảo hay đảo ngũ cung.
4 bài Oán: Tứ đại oán, Phụng cầu, Giang nam, Phụng hoàng.
7 bài lớn (có khi gọi là 7 bài hơi nhạc hoặc 7 bài cò): Xàng xê, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long ngâm, Tiểu khúc, Vạn giá.
Ngoài ra có rất nhiều bài bản khác được dùng, trong đó vọng cổ 32 nhịp là thông dụng nhất. Trong một chương trình hoà nhạc Đờn ca tài tử lúc nào cũng có bài vọng cổ.
Ngày xưa buổi hoà nhạc bắt đầu bằng những bản đàn, bài ca điệu Bắc, hơi Bắc vui tươi; tiếp theo chuyển sang hơi Quảng, hơi nhạc, hơi Hạ; rồi qua điệu Nam, hơi xuân, hơi Ai,qua Đảo ngũ cung. Phần cuối bao giờ cũng chuyển sang hơi Oán, Ai oán và Vọng cổ là những điệu buồn vẫn được người nghe chuộng hơn những bài vui.
Ngoài 20 bản Tổ, còn phát triển thêm 8 bài Ngự, 10 bài Liên hoàn cùng vô vàn dị bản của chúng và rất nhiều bản mới do các nhạc sư, nghệ sỹ tài năng sáng tác, trong số đó có nhiều bản còn được lưu truyền cho tới nay cùng hàng trăm bài ca gắn với di sản âm nhạc phong phú đó.
Ở nông thôn Nam bộ, việc biết Đờn ca tài tử như là lẽ đương nhiên nó đi vào tâm hồn và “ăn vào máu” người dân Nam bộ một cách tự nhiên, bền bỉ đến lạ thường. Đó là tiếng nói của tình mẫu tử, tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hương đất nước, ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi các bậc hiền tài đã góp công cho dân cho nước…
Đờn ca tài tử thực sự là một hiện tượng lớn của âm nhạc Việt Nam trong thời cận - hiện đại. Ở đó không chỉ có sự kế thừa, gìn giữ trong tinh thần, tự hào với di sản văn hóa nghệ thuật cổ truyền của dân tộc, mà còn có sự tiếp nối và phát triển với sức năng động lớn lao - không ngừng đổi mới, tiếp thu và dân tộc hóa những yếu tố mới để thích ứng với thời đại. Đó không chỉ là một sản phẩm của văn hóa và con người Việt Nam, mà còn là một mẫu mực điển hình của sức sống Việt Nam trong thời cận - hiện đại, một tấm gương sáng cho muôn đời sau, không chỉ với nhạc cổ truyền mà cả giới nhạc mới, trong việc kế thừa, bảo tồn và phát triển để thích ứng với thời đại mới,