Ảnh bìa

Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm

Trong nền văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu, đã “làm sửng sốt cả đương thời lẫn hậu thế bằng thiên tài thơ ca lỗi lạc, phi thường của mình”.

Có một điều rất lạ là Hồ Xuân Hương nổi tiếng ở Thăng Long, tài năng được nhiều người biết đến, song về thân thế cuộc đời bà, hầu như không có một tài liệu nào lưu lại. Cho đến nay, mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu, tiểu sử Hồ Xuân Hương vẫn khá lờ mờ với nhiều đoán định. Qua một số tài liệu mới phát hiện gần đây, có thể phác lại tiểu sử Hồ Xuân Hương như sau: Bà sinh vào cuối thế kỷ XVIII, khoảng từ năm 1770-1780, là con gái thuộc dòng họ Hồ, nguyên quán làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Họ Hồ là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan ở thời Lê.

Theo lời tựa tập thơ Lưu hương ký của Hồ Xuân Hương thì bà là em gái Hồ Sĩ Đống (1739-1785), một đại thần đầu triều thời Lê Hiển Tông - Trịnh Sâm. Cha bà là ông Hồ Sĩ Danh (1706-1783). Ông đỗ Hương cống năm 1732 nhưng không ra làm quan. Sinh ra trong một dòng họ có truyền thống Nho học, Hồ Xuân Hương lúc nhỏ được đi học và chịu ảnh hưởng mạnh truyền thống văn chương chữ nghĩa của gia đình. Ngay từ thuở học trò, bà đã tỏ ra có năng khiếu làm thơ quốc âm theo thể luật Đường.

Năm 1783, ông Hồ Sĩ Danh mất. Năm 1785, Hồ Sĩ Đống bị trọng bệnh qua đời. Năm 1786, quân Tây Sơn vào Thăng Long phò Lê diệt Trịnh, không bao lâu nhà Lê sụp đổ. Gia đình Xuân Hương cũng như nhiều gia đình quan lại ở Thăng Long đang quen sống bằng bổng lộc nhà Lê, sau những biến động dữ dội trở nên sa sút, cơ cực. Cha và anh đều đã mất, không còn chỗ dựa, mẹ bà phải buôn bán ngoài chợ để sinh sống.

Đầu thời Gia Long nhà Nguyễn, Hồ Xuân Hương đã là một phụ nữ trên dưới 30 tuổi. Trong con mắt kẽ sĩ bây giờ, bà là một người “học rộng và giỏi văn, nhà nghèo mà đẹp, tư tưởng lạ mà diễm lệ, thơ đúng luật mà thanh thoát, xứng đáng một tài nữ”. Với tài năng như vậy, bà được nhiều văn nhân tài tử mến mộ. Cổ Nguyệt Đường là nơi lui tới xướng họa thơ văn của họ.

Năm 1807, một người họ Phan hiệu là Tốn Phong từ Nghệ An ra Thăng Long, nghe danh tiếng Xuân Hương, ông tìm đến Cổ Nguyệt đường rồi thành bạn cố tri của bà. Họ thường cùng nhau uống rượu, chuyện trò, xướng họa rất tâm đắc. Sau đó Tốn Phong phải bôn ba vào nam ra bắc dạy học kiếm sống, họ không thường gặp nhau được nữa.

Năm 1814, Tốn Phong trở lại Thăng Long, bà trao cho ông tập Lưu hương ký chép các trước tác của bà cho đến thời điểm đó và bảo ông viết lời tựa. Chính qua bài tựa này mà chút ít hình ảnh về Hồ Xuân Hương và cuộc đời bà được lưu giữ lại.

Lưu hương ký của Hồ Xuân Hương có thể nói là một tập thơ tình đặc sắc, khá hiếm hoi trong dòng văn học cổ, được viết vừa bằng Hán văn, vừa bằng Quốc ngữ, bao gồm cả từ và thơ luật Đường, đậm chất trữ tình, đằm thắm chân thành. Tập thơ có “buồn vui thương nhớ, có oán giận mong chờ, có niềm tin và nỗi sợ, là tiếng lòng của một phụ nữ giàu nghị lực, đa tình, đa cảm, khao khát yêu đương nhưng luôn thất bại trong tình trường”. Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng cóc, ông Phủ Vĩnh Tường và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến).

Nhìn chung thơ Nôm Hồ Xuân Hương thông minh dí dỏm, đậm chất dân gian, dũng cảm, đầy tự tin phá vỡ cái khung chật hẹp của chuẩn mẫu đạo đức Nho gia, đem đến cho người đọc niềm vui, tình yêu tha thiết đối với con người và cuộc đời. Với lối thơ Nôm như vậy, đã từ lâu trong tâm thức người Việt, Hồ Xuân Hương hiện diện như một nhà thơ vô cùng độc đáo, xứng đáng được xưng tụng là Bà chúa thơ Nôm.

Hồ Xuân Hương qua đời tại Thăng Long, có lẽ vào khoảng những năm 1825-1830 khi chưa đến 50 tuổi. Phần mộ Hồ Xuân Hương bên hồ Tây hiện đã không còn, nhưng đài tưởng niệm Bà chúa thơ Nôm đã được chính nữ sĩ tạc nên bằng những bài thơ Nôm bất hủ của mình.

Trích Phụ nữ Việt Nam trong lịch sử