Những dấu mốc lịch sử qua các kỳ Đại hội Đảng
Trải qua 11 lần tổ chức đại hội đại biểu toàn quốc, mỗi đại hội của Đảng đều đánh dấu một bước chuyển mới của lịch sử dân tộc. Trong những ngày cả nước hân hoan đón chào sự kiện Đại hội lần thứ 12 của Đảng, chúng ta cùng nhìn lại chặng đường vinh quang, hào hùng của Đảng từ khi thành lập đến nay thông qua các kỳ Đại hội.
Hội nghị thành lập Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ ngày 3 đến 7/2/1930 tại Cửu Long, gần Hương Cảng (Trung Quốc) mang tầm vóc lịch sử của đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày 3/2/1930 trở thành ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm, xác định con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Đại hội I: Củng cố hệ thống tổ chức của Đảng
Ngay sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh.
Từ ngày 28 đến 31/3/1935, đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã họp tại một địa điểm ở phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc) nhằm xác định đường lối cho thời kỳ đấu tranh mới khi Đảng đã phục hồi sau các cuộc “khủng bố trắng” của thực dân Pháp. Tham dự đại hội có 13 đại biểu đại diện cho 600 đảng viên. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành trung ương gồm 13 ủy viên (9 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết), ông Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng bí thư. Ban chấp hành trung ương nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc là đại biểu của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Tháng 7/1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng bí thư. Tới tháng 3/1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng bí thư. Tháng 5/1941, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng bí thư.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng là sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh giữ gìn và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở, từ trong nước đến nước ngoài.
Đại hội 2: Đại hội kháng chiến
Sau chiến thắng Thu – Đông năm 1947 và chiến dịch Biên giới năm 1950, thế và lực của nước ta trong kháng chiến chống Pháp phát triển vượt bậc. Để tiếp tục phát triển đường lối kháng chiến kiến quốc, Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng. Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến 19/2/1951. Về dự đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.349 đảng viên.
Đại hội bầu ra Ban chấp hành trung ương mới gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Ban chấp hành đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức và một ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch Đảng (kiêm Tổng bí thư từ tháng 10/1956). Đồng chí Trường Chinh là Tổng bí thư (đến tháng 10/1956).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng. Đường lối do đại hội vạch ra đã đáp ứng yêu cầu trước mắt của kháng chiến, yêu cầu lâu dài của cách mạng và thực sự là những đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta.
Đại hội III: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến 10/9/1960. 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50.000 đảng viên trong cả nước dự Đại hội.
Trong lời khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đại hội lần này là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà". Đại hội đã bầu Ban chấp hành trung ương mới gồm 47 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự khuyết.
Ban chấp hành trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng có một ý nghĩa rất trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng do đại hội vạch ra là ngọn đèn sáng ngời chiếu rọi con đường của nhân dân ta tiến tới chủ nghĩa xã hội, tiến tới thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Đại hội 4: Đại hội thống nhất tổ quốc, đưa cả nước tiến lên con đường XHCN
Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước ta bắt đầu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hoà bình thống nhất độc lập và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV tại thủ đô Hà Nội từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976. 1.008 đại biểu thay mặt hơn 1,55 triệu đảng viên trong cả nước dự đại hội.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành trung ương gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm có 14 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng bí thư.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 4 của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và mở đầu cho thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nội dung cơ bản của đại hội về xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đánh dấu một bước phát triển của Đảng ta trong việc tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Đại hội lần thứ 5: Đại hội của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của Đảng họp từ ngày 27 đến ngày 31/3/1982 tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt hơn 1,7 triệu đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở.
Đại hội đã bầu Ban chấp hành trung ương Đảng gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Ban chấp hành trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng bí thư.
Ngày 14/7/1986, Ban chấp hành trung ương họp phiên đặc biệt. Đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức Tổng bí thư thay đồng chí Lê Duẩn từ trần ngày 10/7/1986. Đại hội lần thứ 5 của Đảng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng… nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam.
Đại hội VI: Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18/12/1986. Đại hội có sự tham dự của 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đại hội đã bầu Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 6 gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và một ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng bí thư. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban chấp hành trung ương Đảng.
Đại hội đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội 7: Đại hội của trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỷ cương, đoàn kết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 7 của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới được Đảng đề ra từ đại hội lần thứ 6 (12/1986) bước đầu đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển. Đại hội họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến 27/6/1991 với 1.176 đại biểu đại diện cho hơn 2,1 triệu đảng viên. Đại hội đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành trung ương (khoá 6) gồm 146 ủy viên, bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công là cố vấn Ban chấp hành trung ương Đảng.
Thành công của đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới trong tiến trình cách mạng Việt Nam, khẳng định đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc là quá trình không thể đảo ngược.
Đại hội 8: Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới đã tiến hành được 10 năm và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt, tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong hoàn cảnh đó, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28/6 đến 1/7/1996, tại Hà Nội. Dự đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho gần 2,13 triệu đảng viên trong cả nước.
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 8 bao gồm 170 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công làm Cố vấn Ban chấp hành trung ương Đảng.
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá 8) đã bầu đồng chí Lê Khả Phiêu giữ chức vụ Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội lần thứ 8, đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội 9 có chủ đề: Trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới
Đại hội diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc thế kỷ 20 và bước sang thế kỷ 21, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn.
Đại hội họp tại Hà Nội từ ngày 19 đến 22/4/2001, với sự tham gia của 1.168 đại biểu, đại diện cho hơn 2,4 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đại hội 9 đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Đại hội đã bầu Ban chấp hành trung ương khoá 9 gồm 150 ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, Ban bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng bí thư.
Đại hội 9 của Đảng có ý nghĩa mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội 10: Trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và phát triển bền vững
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 10 của Đảng họp từ ngày 18 đến ngày 25/4/2006 tại thủ đô Hà Nội. Dự đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 10 của Đảng đã bầu ra Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 10 gồm 160 ủy viên chính thức và 21 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành trung ương Đảng khoá 10 đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí, Ban bí thư trung ương Đảng gồm 8 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng bí thư.
Thành công của đại hội 10 của Đảng cổ vũ mạnh mẽ toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiến lên tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 11
Đại hội lần thứ 11 của Đảng chính thức diễn ra từ ngày 12 đến 19/01/2011 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình với sự tham dự của 1.377 đại biểu, đại diện cho hơn 3,6 triệu đảng viên sinh hoạt ở gần 54.000 tổ chức cơ sở Đảng.
Chủ đề Đại hội là: "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa 11, họp lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng bí thư.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và đồng bào ta ở nước ngoài, tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, của Đảng, nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, năng động và sáng tạo, ra sức thi đua quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội 11 của Đảng, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
(Theo Chinhphu.vn)