Lịch sử ra đời của Quân đội Nhân dân Việt Nam
Lịch sử ra đời của Quân đội Nhân dân Việt Nam
Đầu năm 1943, tình thế cách mạng ở Đông Dương có thay đổi, mâu thuẫn giữa thực dân Pháp và phát xít Nhật ngày càng tăng. Ngày 10/8/1944, Trung ương Đảng kêu gọi “sắm vũ khí, đuổi kẻ thù chung”.
Cuối năm 1944, tinh thần khởi nghĩa tại Cao - Bắc - Lạng lên rất cao, tuy nhiên khí thế khởi nghĩa chỉ mạnh ở một số địa phương. Tháng 10/1944, sau khi từ Trung Quốc về Cao Bằng, đồng chí Hồ Chí Minh dự Hội nghị Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng nghe báo cáo tình hình, kịp thời chỉ đạo trì hoãn khởi nghĩa Cao - Bắc - Lạng.
Tháng 12 - 1944, Lãnh tụ Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Người ghi rõ: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”... “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân”...
Ảnh: Quang cảnh ngày thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân tại khu rừng Trần Hưng Đạo. Ảnh tư liệu
Thực hiện chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, sau một thời gian chuẩn bị, ngày 22-12-1944, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, tuyên bố thành lập Đội. Ban đầu, Đội có 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (tức Dương Mạc Thạch) làm Chính trị viên, đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách kế hoạch - tình báo. Đội có Chi bộ Đảng lãnh đạo.Theo yêu cầu của anh em, sau lễ thành lập, Đội tổ chức một bữa cơm nhạt không rau, không muối để nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ của chiến sĩ cách mạng.
Ngày 15-5-1945, chấp hành nghị quyết của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, lễ thống nhất Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân được tổ chức tại đình làng Quặng, xã Định Biên, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Việt Nam Giải phóng quân đã cùng bộ đội địa phương, tự vệ và nhân dân chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ chính quyền cách mạng ở những nơi mới thành lập, sẵn sàng tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước khi thời cơ đến.
Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam Giải phóng quân đã cùng lực lượng vũ trang các địa phương và nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc.
Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 07 tháng 05 năm 1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, đồng thời tạo nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng với nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới, Quân đội tiếp tục làm tốt chức năng của đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động, sản xuất; đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Đồng thời Quân đội luôn chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, hoạch định đường lối chiến lược bảo vệ Tổ quốc; đánh giá, dự báo đúng tình hình, xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.